Đánh giá tình hình sử dụng thuốc trong điều trị ung thư đại trực tràng tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định năm 2022

Các tác giả

  • Tống Minh Phi Trường Đại học Phan Thiết
  • Nguyễn Thị Thu Hương Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng
  • Phạm Hồng Thắm Bệnh viện Nhân dân Gia Định
  • Nguyễn Tuấn Anh Bệnh viện Nhân dân Gia Định
DOI: https://doi.org/10.59294/HIUJS2025071

Từ khóa:

ung thư đại trực tràng, phác đồ hóa trị, biến cố bất lợi của thuốc (ADE)

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Chưa có nhiều nghiên cứu về biến cố bất lợi (ADE) trong phác đồ điều trị ung thư đại trực tràng. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ phác đồ và tỷ lệ ADE của các phác đồ điều trị ung thư đại trực tràng tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định. Phương pháp: Thiết kế mô tả cắt ngang và tiến cứu dựa trên số liệu và thông tin thu thập từ bệnh án và phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân đang điều trị từ 6/2022 đến 12/2022. Kết quả: Nghiên cứu được thực hiện trên 79 hồ sơ bệnh án với 149 đợt điều trị được lấy mẫu trong năm 2022, bệnh nhân trên 60 tuổi chiếm 51.9%, 75.9% là ung thư đại tràng và 40.5% trường hợp ung thư ở giai đoạn IV với di căn gan chiếm 58.5%. Hóa trị bổ trợ chiếm 61.1%, chủ yếu là phác đồ capecitabine (31.5%) và XELOX (27.5%). Hóa trị di căn, tái phát chiếm 38.9%, chủ yếu là phác đồ capecitabine (12.1%) và XELOX (14.8%). Có 32.4% là ADE cận lâm sàng và 67.6% là ADE lâm sàng. ADE cận lâm sàng độ 1 chiếm 94.8% với thiếu máu chiếm tỷ lệ cao nhất (30.6%). ADE lâm sàng độ 1 chiếm 93.5%, điển hình là mệt mỏi (53.4%), tê tay chân (44.3%), khô miệng (36.2%), sạm da (25.5%), táo bón (21.5%), buồn nôn (20.8%), tiêu chảy (20.1%). Thiếu máu và giảm bạch cầu là các ADE được ghi nhận nhiều nhất ở các phác đồ capecitabine và XELOX. Kết luận: Việc theo dõi thường xuyên ADE và điều chỉnh phác đồ là cần thiết để giảm tác dụng phụ của thuốc, nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân và duy trì hiệu quả trong điều trị.

Abstract

Background: In Vietnam, there are a little clinical study on adverse drug events (ADEs) for colorectal cancer treatment. Objective: To determine the distribution of treatment regimens and the incidence of adverse drug events (ADEs) associated with colorectal cancer therapies at Gia Dinh People's Hospital. Methods: A descriptive cross-sectional and prospective descriptive study design based on data and information collected from medical records and direct patient interviews during the treatment period from June 2022 to December 2022. Results: The study was conducted on 79 medical records comprising 149 treatment cycles sampled in 2022, recorded 51.9% of patients aged ≥ 60 years, 75.9% of colon cancer, and cancer in stage 4 was the highest (40.5%) with 58.5% of liver metastasis. Adjuvant chemotherapy accounted for 61.1% which capecitabine (31.5%) and XELOX (27.5%) regimens were mainly used. The rate of metastatic treatment therapy was 38.9% which capecitabine (12.1%) and XELOX (14.8%) regimens were highly used. Pre-clinical ADEs occurred in 32.4% cases which grade 1 was popular (94.8%) in which anemia had the highest rate of 30.6%. The prevalence of clinical ADEs accounted for 67.6% which grade 1 was calculated as 93.5%, and typical ADEs were recorded as fatigue (53.4%), numbness of limb (44.3%), dry mouth (36.2%), skin change (25.5%), constipation (21.5%), nausea (20.8%), diarrhea (20.1%), …. Anemia and neutropenia were the most common complications determined in capecitabine and XELOX regimens. Conclusion: The pharmacovigilance activities and therapeutic drug monitoring are essential strategies to diminish side effects of chemotherapy drugs, enhancing quality of life for colorectal cancer patients and maintaining clinical outcome.

Tài liệu tham khảo

[1] Sung H., Ferlay J., Siegel R.L., et al, "Global cancer statistics 2020: GLOBOCAN estimates of incidence and mortality worldwide for 36 cancers in 185 countries", CA: A Cancer Journal for Clinicians, vol. 56, no. 2, pp. 1112 - 1114, 2020.

DOI: https://doi.org/10.3322/caac.21660

[2] F. Bray, M. Laversanne, H. Sung, J. Ferlay, R. L. Siegel, I. Soerjomataram, and A. Jemal, "Global cancer statistics 2022: GLOBOCAN estimates of incidence and mortality worldwide for 36 cancers in 185 countries", CA: A Cancer Journal for Clinicians, vol. 74, no. 3, pp. 229-263, May-Jun 2024, doi: 10.3322/caac.21834.

DOI: https://doi.org/10.3322/caac.21834

[3] Siegel, Rebecca L, Miller, Kimberly D, Goding Sauer et al., "Colorectal cancer statistics, 2020", CA: A Cancer Journal for Clinicians, vol. 70, no. 3, pp. 145-164, 2020.

DOI: https://doi.org/10.3322/caac.21601

[4] Bộ Y tế, Quyết định số 2549/QĐ-BYT ngày 19 tháng 4 về Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị ung thư Đại - Trực tràng, 2018.

[5] Bộ Y tế, Quyết định số 3809/QĐ-BYT ngày 27 tháng 08 về Hướng dẫn thực hành dược lâm sàng cho dược sĩ trong một số bệnh không lây nhiễm, 2019.

[6] L. K. Sương, "Khảo sát hiệu quả và tính an toàn phác đồ có bevacizumab trong điều trị ung thư đại - trực tràng di căn tại Bệnh viện Nhândân Gia Định", Tạp chí Y học Việt Nam, vol. 511, no. 2, 2022.

DOI: https://doi.org/10.51298/vmj.v511i2.2113

[7] N. H. Thắng, H. T. Kiên, V. H. Thăng, "Kết quả điều trị của phác đồ cetuximab kết hợp hóa chất trong ung thư đại trực tràng giai đoạn IV tại Bệnh viện K", Tạp chí Y học Việt Nam, vol. 519, no. 1, 2022.

DOI: https://doi.org/10.51298/vmj.v519i1.3506

[8] J. Cassidy et al., "XELOX vs FOLFOX-4 as first-line therapy for metastatic colorectal cancer: NO16966 updated results", British journal of cancer, vol. 105, no. 1, pp. 58-64, 2011.

DOI: https://doi.org/10.1038/bjc.2011.201

[9] Guo, Yu Xiong, Bing-Hong Zhang, et al., "XELOX vs. FOLFOX in metastatic colorectal cancer: An updated meta-analysis", Cancer investigation, vol. 34, no. 2, pp. 94-104, 2016.

DOI: https://doi.org/10.3109/07357907.2015.1104689

[10] Huang, Wen-Yen Ho, Ching-Liang Lee, Chia-Cheng Hsiao et al., "Oral tegafur-uracil as metronomic therapy following intravenous FOLFOX for stage III colon cancer", PLoS One, vol. 12, no. 3, p. e0174280, 2017.

DOI: https://doi.org/10.1371/journal.pone.0174280

[11] Prado, Carla MM Baracos, Vickie E McCargar, et al., "Body composition as an independent determinant of 5-fluorouracil-based chemotherapy toxicity", Clinical Cancer Research, vol. 13, no. 11, pp. 3264-3268, 2007.

DOI: https://doi.org/10.1158/1078-0432.CCR-06-3067

[12] T. N. H. Giang, T. N. H. Châu và cộng sự, "Đánh giá kết quả điều trị của phác đồ Bevacizumab - mFOLFOX6 trong điều trị bước 1 bệnh nhân ung thư đại trực tràng giai đoạn IV", Tạp chí Y học Việt Nam, vol. 539, no. 2, 2024.

DOI: https://doi.org/10.51298/vmj.v539i2.9785

[13] Đ. C. Thuận, N. D. N. Anh, "Nghiên cứu mối liên quan giữa nồng độ CEA và các đặc điểm lâm sàng, giải phẫu bệnh trong ung thư biểu mô đại trực tràng", Tạp chí Y Dược học, vol. 9, pp. 86-95, 2012.

[14] N. T. T. Tâm, N. T. Quang, "Kết quả điều trị bước một CETUXIMAB kết hợp hóa chất trong ung thư đại trực tràng tái phát, di căn", Tạp chí Y học Việt Nam, vol. 529, no. 1B, 2023.

DOI: https://doi.org/10.51298/vmj.v529i1B.6383

[15] N. K. Dụ, "Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đột biến gen Kras, Braf ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng", Luận án Tiến Sỹ, Trường Đại Học Y Hà Nội, 2017.

[16] N. T. Thủy, L. T. H. Phúc, V. H. Thăng, "Kết quả điều trị ung thư đại trực tràng tái phát di căn bằng phác đồ Folfiri tại Bệnh viện ung bướu Nghệ An", Tạp chí Y học Việt Nam, vol. 542, no. 3, 2024.

DOI: https://doi.org/10.51298/vmj.v542i3.11170

Tải xuống

Số lượt xem: 727
Tải xuống: 85

Đã xuất bản

24.09.2025

Cách trích dẫn

[1]
T. M. Phi, N. T. T. Hương, P. H. Thắm, và N. T. Anh, “Đánh giá tình hình sử dụng thuốc trong điều trị ung thư đại trực tràng tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định năm 2022”, HIUJS, vol 37, tr 89–98, tháng 9 2025.

Số

Chuyên mục

DƯỢC HỌC

Các bài báo được đọc nhiều nhất của cùng tác giả

<< < 1 2 3 4 > >>