Nghiên cứu sản xuất giống cá bông lau (Pangasius krempfi Fang & Chaux 1949) tại Đồng Tháp

Các tác giả

  • Huỳnh Văn Mừng Công ty TNHH MTV Thuỷ Sản Mừng Liên
  • Phạm Văn Khánh Công ty TNHH MTV Thuỷ Sản Mừng Liên
  • Nguyễn Thị Nga Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng
  • Ngô Văn Tuấn Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng

Từ khóa:

thành thục sinh dục, ương nuôi, cá bông lau, sinh sản nhân tạo

Tóm tắt

Cá bông lau được thu thập từ tự nhiên và nuôi nhốt trong bè trên sông Tiền thuộc tỉnh Đồng Tháp. Kích cỡ cá nuôi vỗ thành thục từ 2,7 - 3,5 kg/con. Bè nuôi vỗ có thể tích 100 m3. Mật độ thả 3 - 5 kg/m3. Thức ăn cho cá là thức ăn viên công nghiệp có hàm lượng đạm 40%, khẩu phần 1% khối lượng thân/ngày. Cá bố mẹ đã thành thục tốt và mùa vụ sinh sản từ tháng 8 đến tháng 11.
Sử dụng kích dục tố HCG với tổng liều cho cá cái trung bình là 6.500 UI/kg cá cái và cá đực 2.000 UI/kg. Trong 2 năm 2016 và 2017, số cá cái rụng trứng đạt tỷ lệ 90,95%. Tỷ lệ thụ tinh trung bình 93,75%. Ấp trứng khử dính trong bình weise, tỷ lệ nở của trứng trung bình 84,9%.
Kết quả ương cá giống cho thấy, ương từ cá bột đến 30 ngày tuổi trong bể, mật độ 40 con/m2 và ương cá giống từ 31 đến 60 ngày tuổi, mật độ 30 con/m2 đều đạt tỷ lệ sống cao nhất (94,1±3,7% và 88,2±3,2%).
Thực nghiệm trong ao đất, ương từ cá bột đến 30 ngày tuổi ở mật độ 30 con/m2 và ương cá giống từ 31 đến 60 ngày tuổi ở mật độ 15 con/m2 đều đạt tỷ lệ sống cao nhất (84,3±2,4% và 62,5±4,2%). Kết quả nghiên cứu đã nâng cao tỷ lệ thành thục cá bố mẹ, giảm số lần tiêm kích dục tố cho cá cái, giảm thiểu tỷ lệ cá bố mẹ bị chết khi cho đẻ. Ương nuôi cá bột lên cá hương giống trong ao đất đã nâng cao được sản lượng cá giống.

Abstract

Pangasius krempfi was caught from nature and raised in the woody cage in Tiền River, Dong Thap province. The average weight of mature fish was various, i.e. 2.7-3.5 kg. The woody cage for raising fish was 100m3. The density of P. krempfi breeder was 3-5kg/m3. The aquafeed was commercial crumbles which included 40% protein and the fish was fed by 1% of body weight/day. The P. krempfi parents can breed naturally by themselves and the breeding cycle was from August to November. The male and female P. krempfi were treated by HCG with the dose of 2,000UI/kg and 6,500UI/kg, respectively. In 2016 and 2017, the ovulation rate was 90.95% and the fertilization rate was 93.75%. The in-adhesive fertilized eggs were incubated in Weise, and the average eclosion rate was 84.9%
In the concrete fishpond, the production result of P. krempfi showed that the 30-day old small young fish for breeding with the density of 40 unit/m2 and the 31-to-60-day old small young fish for breeding had high survival rate, i.e. 94,1±3,7% and 88,2±3,2%, respectively. In the ground fishpond, the high survival rate was observed when raising the young fish for breeding to 30-day old fish with the density of 30 unit/m2, i.e. 84,3±2,4%. Similar result was obtained when raising the young fish for breeding to 31-to-60-day old fish with the density of 15 unit/m2, i.e. 62,5±4,2%. This study showed the improvement of natural breeding of mature parents, reduced the time of using HCG and the death of parents during the breeding cycle. Raising the young fish for breeding to immature fish in the ground fishpond can enhance the number of P. krempfi production.

Tải xuống

Số lượt xem: 45
Tải xuống: 30

Đã xuất bản

17.04.2023

Cách trích dẫn

[1]
H. V. Mừng, P. V. Khánh, N. T. Nga, và N. V. Tuấn, “Nghiên cứu sản xuất giống cá bông lau (Pangasius krempfi Fang & Chaux 1949) tại Đồng Tháp”, HIUJS, vol 8, tr 7–13, tháng 4 2023.

Số

Chuyên mục

KHOA HỌC SỨC KHOẺ

Các bài báo được đọc nhiều nhất của cùng tác giả