Kiến thức và thực hành tránh thai của phụ nữ dân tộc Khơ-me tại Tri Tôn, An Giang năm 2024

Các tác giả

  • Huỳnh Văn Hóa Trường Đại học Lạc Hồng
  • Chau So Ny Trường Đại học Lạc Hồng
  • Nguyễn Thị Huyền Trâm Trường Đại học Khoa học sức khoẻ, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
DOI: https://doi.org/10.59294/HIUJS2025084

Từ khóa:

biện pháp tránh thai, kiến thức, thực hành, Khơ-me, An Giang

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Việc sử dụng đúng cách các biện pháp tránh thai có thể giúp giảm tỷ lệ phá thai, góp phần bảo vệ sức khỏe sinh sản của phụ nữ, nâng cao chất lượng cuộc sống và thức đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kiến thức, thực hành của phụ nữ dân tộc Khơ-me về thực hiện các biện pháp tránh thai tại huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang năm 2024. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang với 384 phụ nữ dân tộc Khơ-me từ 15 - 49 tại huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang từ tháng 12/2024 đến 5/2025. Sử dụng bảng câu hỏi trích từ nghiên cứu đánh giá chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình tại Việt Nam của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc. Kết quả: Trong tổng số 384 người tham gia, có 28.39% có kiến thức “tốt” về các BPTT; 21.61% mức “trung bình” và 50% mức “yếu”. Tỷ lệ thực hành “tốt” là 96.09% và “chưa tốt” chỉ 3.91%. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy thực trạng kiến thức, thực hành về sử dụng BPTT của phụ nữ dân tộc Khơ-me tại Tri Tôn còn hạn chế. Cần tăng cường truyền thông, giáo dục sức khỏe về các biện pháp tránh thai, khuyến khích các cặp vợ chồng thảo luận và lựa chọn biện pháp phù hợp dựa trên thông tin và tư vấn chuyên môn.

Abstract

Background: The right use of contraceptive methods can help reduce abortion rates, contribute to the protection of women's reproductive health, improve quality of life, and promote socio-economic development. Objectives: To assess the knowledge and practices of Khmer ethnic minority women regarding the use of contraceptive methods. Material and methods: A cross-sectional descriptive study was conducted with a sample of 384 Khmer women aged 15 - 49 in Tri Ton District, An Giang province, from December 2024 to May 2025. Data were collected using a questionnaire adapted from the United Nations Population Fund (UNFPA) study on family planning service quality in Vietnam. Results: Among participants, 28.39% had “Good” knowledge of contraceptive methods; 21.61% had “Average” knowledge, while 50% were rated as “Poor”. The rate of "Good" practice in using contraceptive methods was 96.09%, while “Poor” practice only accounted for 3.91%. Conclusion: This study showed that the current status of knowledge and practice of contraceptive use among Khmer ethnic women in Tri Ton district, An Giang province is limited. There is a need to strengthen communication and health education on contraceptive methods, and to encourage couples to discuss and choose appropriate methods based on accurate information and professional counseling.

Tài liệu tham khảo

[1] Tổ chức Y tế Thế giới, "Family planning/contraception methods", 2023, https://www.who.int/news-room/
fact-sheets/detail/family-planning-contraception.

[2] Tổng Cục thống kê Việt Nam "Kết quả chủ yếu Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình thời điểm 01/4/2020.", 2023, https://www.nso.gov.vn
/default/2024/12/ket-qua-chu-yeu-dieu-tra-bien-dong-dan-so-va-ke-hoach-hoa-gia-dinh-thoi-diem-01-4-2023/.

[3] UNFPA Việt Nam “Báo cáo thực trạng và các yếu tố tác động đến mức sinh tại Việt Nam” 2021, https://vietnam.unfpa.org/sites/default/files/pub-pdf/20210630_final_fertilityreport_vn.pdf

[4] Uỷ ban Nhân dân tỉnh An Giang, "Báo cáo thực hiện chính sách phát triển kinh tế- xã hội ở vùng đồng bào dân tộc khmer giai đoạn 2018 - 2023 tỉnh An Giang", 2023.

[5] M. B. A. Sukumar and S. M. John, "Knowledge, Attitude and Practices of Contraceptives Among Married Women of Rural Vellore," The Journal of Obstetrics and Gynecology of India, pp. 1-7, 2022.

DOI: https://doi.org/10.1007/s13224-021-01552-4

[6] T. Q. Tuấn, Đ. T. Hồng Nhung, "Thực trạng kiến thức về biện pháp tránh thai của sinh viên điều dưỡng trường đại học điều dưỡng nam định năm 2022," Tạp chí Y học Việt Nam, vol. 528, no. 2, 08/07 2023, doi: 10.51298/vmj.v528i2.6131.

DOI: https://doi.org/10.51298/vmj.v528i2.6131

[7] Tổng Cục thống kê " Kết quả Điều tra thống kê các mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ Việt Nam 2020-2021.", 2021, https://www.gso.gov.vn
/du-lieu- va-so-lieu-thong-ke/2022/06/ket-qua-tom-tat-dieu-tra-thong-ke-cac-muc-tieu-phat-trien-ben-vung-ve-tre-em-va-phu-nu-viet-nam-2020-2021/.

[8] Z. A. Memon et al. , "Effective strategies for increasing the uptake of modern methods of family planning in South Asia: a systematic review and meta-analysis", BMC Women's Health, vol. 24, no. 1, p. 13, 2024.

DOI: https://doi.org/10.1186/s12905-023-02859-2

[9] G. Sedgh, Ashford, L.S. and Hussain, Unmet Need for Contraception in Developing Countries: Examining Women's Reasons for Not Using a Method. ,Guttmacher Institute., 2016.

[10] S. Uprety, A. Ghimire, M. Poudel, S. Bhattrai, and D. Baral, "Knowledge, attitude and practice of family planning among married women of reproductive age in a VDC of eastern Nepal", Journal of Chitwan Medical College, vol. 6, no. 1, pp. 48-53, 2016.

DOI: https://doi.org/10.3126/jcmc.v6i1.16655

Tải xuống

Số lượt xem: 59
Tải xuống: 13

Đã xuất bản

24.11.2025

Cách trích dẫn

[1]
H. V. Hóa, C. S. Ny, và N. T. H. Trâm, “Kiến thức và thực hành tránh thai của phụ nữ dân tộc Khơ-me tại Tri Tôn, An Giang năm 2024”, HIUJS, vol 38, tr 9–16, tháng 11 2025.

Số

Chuyên mục

Y HỌC