ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ GÃY XƯƠNG GÓT BẰNG PHƯƠNG PHÁP KẾT HỢP XƯƠNG NẸP VÍT KHÓA
Các tác giả
DOI: https://doi.org/10.59294/HIUJS20250130Từ khóa:
gãy xương gót, kết hợp xương gót bằng nẹp vít khoá, nửa sau bàn chânTóm tắt
Đặt vấn đề: Gãy xương gót là tổn thương thường gặp trong gãy xương vùng cổ chân, có 70% các trường hợp gãy xương gót là gãy phạm khớp. Trước đây gãy xương gót thường được điều trị bảo tồn nhưng với sự tiến bộ của các phương pháp chẩn đoán hình ảnh cho phép khảo sát rõ hơn về hình ảnh học tổn thương thì phẫu thuật xương gót được áp dụng nhiều hơn, với lợi thế kiểm soát ổ gãy và nắn chỉnh dễ dàng ứng dụng các loại nẹp vít khoá thiết kế theo giải phẫu đã cải thiện kết quả phẫu thuật kết hợp xương gót. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả bước đầu điều trị gãy xương gót bằng phương pháp kết hợp xương nẹp vít khóa tại Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất tỉnh Đồng Nai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến cứu hồi cứu trên 39 bệnh nhân gãy xương gót đã được phẫu thuật kết hợp xương bằng nẹp vít khoá, theo dõi sau 6 tháng sau phẫu thuật. Kết quả: 39 bệnh nhân có tuổi trung bình là 42.6 ± 11.1 tuổi, nam có 36 chiếm 92.3%, nữ có 3 chiểm 7.7%; Phân loại 39 ổ gãy: 11 ổ gãy loại II (28.2%), 24 ổ gãy loại III (61.5%), 4 ổ gãy loại IV (10.3%); Sau mổ thấy góc Boehler được phục hồi (250 - 450) ở 28 bàn chân chiếm 71.8%. Kết luận: Gãy lún xương gót là một trong những tổn thương nặng thường gặp ở tuổi lao động. Việc điều trị nếu không hoàn thiện sẽ để lại nhiều di chứng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và khả năng lao động sau này của bệnh nhân và cũng là gánh nặng chi phí của xã hội.
Abstract
Background: Calcaneal fractures are common injuries in ankle fractures, 70% of calcaneal fractures are intra-articular fractures. Previously, calcaneal fractures were often treated conservatively, but with the advancement of diagnostic imaging methods that allow for clearer examination of the lesion's imaging, calcaneal surgery is applied more often, with the advantage of controlling the fracture and easy reduction, applying anatomically designed locking screws and plates has improved the results of calcaneal fusion surgery. Research objectives: Initial evaluation of results of treatment of calcaneal fractures by combined screw and plate method at Thong Nhat General Hospital, Dong Nai. Research subjects and methods: A descriptive transverse study, both prospective and retrospective, on 39 patients with heel fractures who underwent surgical fixation with locking plates and screws. Follow-up 6 months after surgery. Results: 39 patients had an average age of 42.6 ± 11.1 years, 36 were male (92.3%), 03 were female (7.7%). Classification of 39 fractures: 11 were type II fractures (28.2%), 24 were type III fractures (61.5%), 4 were type IV fractures (10.3%). After surgery, the Boehler angle was restored (250 - 450) in 28 feet (71.8%). Conclusion: Calcaneal fracture is one of the most common serious injuries in working age. If not treated properly, it will leave many sequelae, affecting the patient's quality of life and future working ability, and is also a financial burden for society.
Tài liệu tham khảo
[1] Đ.H. Anh, “Kết quả điều trị gãy kín xương gót bằng kết hợp xương nẹp khóa tại bệnh viện Quân y 103,” Tạp chí Y dược Thực hành, tập 175, số 22, 2020.
[2] N. L. Bình, “Nhận xét kết quả bước đầu phẫu thuật kết hợp xương nẹp khóa điều trị gãy xương gót,” Tạp chí Chấn thương chỉnh hình, 2016;
[3] T.H. Trí, “Đánh giá kết quả điều trị gãy lún nhiều mảnh đôi gót bằng nắn kín và xuyên đinh dưới màn tăng sáng,” Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh, tập 23, số 3, 2019.
[4] N.Q. Huy, Đánh giá kết quả điều trị gãy kín xương gót bằng phẫu thuật kết hợp xương nẹp khóa tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, Luận văn Thạc sỹ Đại học Y Dược Hà Nội, 2021.
[5] F. H. Netter, Atlas giải phẫu người. (Bản tiếng Việt, người dịch: Nguyễn Quang Quyền, Phạm Đăng Diệu), 2004.
[6] N. Q. Quyền, “Bài giảng giải phẫu học,” Nhà xuất bản Y học, 2013.
[7] L.M. Sơn, “Đánh giá kết quả điều trị gãy kín xương gót bằng phẫu thuật kết hợp xương nẹp khóa tại khoa phẫu thuật chấn thương chung - Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức”, Tạp chí Y học Việt Nam, tập 539, 2024.
DOI: https://doi.org/10.51298/vmj.v539i2.9815[8] L.Q. Thanh, “Đánh giá kết quả điều trị gãy kín lún nhiều mảnh xương gót bằng phương pháp kết hợp xương nẹp ốc,” Luận văn Chuyên khoa 2, Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, 2015.
[9] V. H. Tuấn, P.H. La, “Kết quả bước đầu điều trị gãy kín xương gót bằng phương pháp kết hợp xương nẹp vít khóa”, Tạp chí Y Dược học Cần Thơ, tập 63, tr. 48-55, 2023.
DOI: https://doi.org/10.58490/ctump.2023i63.1355[10] M. Gahavi 2018, “To study outcomes of calcaneus fractures treated by conservative and surgical treatment according to AOFAS scoring system”, National Journal of Clinical Orthopaedics, vol.87, pp.1260-1264, 2018.
[11] C. Jin et al. “Minimally invasive percutaneous osteosynthesis versus ORIF for Sander type II and III calcaneal fractures: a prospective, randomized intervention trial”. Journal of orthopaedic surgery and research, vol.12, pp. 1-10, 2017.
DOI: https://doi.org/10.1186/s13018-017-0511-5Tải xuống
Tải xuống: 15



